Theo Luật sư Trần Xuân Tiền, Đoàn Luật sư TP. Hà Nội cho biết, Điều 463 Bộ luật Dân sự 2015 quy định hợp đồng vay tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cho vay giao tài sản cho bên vay. Khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn trả cho bên cho vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và chỉ phải trả lãi nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định.
Như vậy, việc vay nợ chỉ được xác lập dựa trên sự thỏa thuận của các bên dưới tinh thần tự nguyện.
Trong trường hợp bản thân bị người khác lấy cắp thông tin căn thẻ căn cước hay căn cước công dân để vay nợ nhưng trên thực tế không thực hiện giao dịch vay tiền, không nhận tiền vay thì không có nghĩa vụ phải trả nợ. Tuy nhiên, trong trường hợp này, người bị lấy cắp thông tin phải chứng minh được bản thân không phải là người thực hiện việc vay tiền.
Ảnh minh hoạ.
Bên cạnh đó, đối với việc người lấy thông tin căn cước công dân, thẻ căn cước, giả chữ ký của người khác nhưng tổ chức cho vay tín dụng vẫn cho vay. Việc này nếu người dân phát hiện bản thân không vay, không ký thì có ý kiến với cơ quan chức năng điều tra, làm rõ vì việc này có dấu hiệu phạm tội "Lừa đảo, lạm dụng tín nhiệm để chiếm đoạt tài sản".
Cùng với đó, cơ quan chức năng cần làm rõ, việc có hay không có nhân viên tín dụng thông đồng với bên vay làm giấy tờ giả để nhanh chóng giải ngân. Trên thực tế rất nhiều trường hợp như thế này xảy ra.
Cũng theo Luật sư Trần Xuân Tiền, người bị đánh cắp thông tin có thể trình báo sự việc trên cho các cơ quan Công an theo quy định tại Điều 163 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 và khoản 1 Điều 7 Thông tư 28/2020/TT-BCA để được cơ quan có thẩm quyền tiến hành điều tra, xác minh sự việc cũng như đưa ra phương án xử lý với người lấy cắp thông tin. Riêng trường hợp giấy tờ nhân thân bị rơi, mất thì phải nhanh chóng thông báo với cơ quan có thẩm quyền về việc làm rơi, mất giấy tờ nhân thân của mình. Trong trường hợp giấy tờ chứa thông tin cá nhân bị đánh rơi, mất thì phải thông báo đến cơ quan có thẩm quyền để được bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình.
Thông tin thêm về vấn đề này, Luật sư cho biết, đối cá nhân có hành vi sử dụng thông tin cá nhân của người khác không đúng mục đích hoặc không có sự đồng ý của chủ thể, có thể bị phạt tiền từ 20 - 30 triệu đồng theo quy định tại khoản 2 điều 84 nghị định 15/2020/NĐ-CP (sửa đổi bổ sung bởi nghị định 14/2022/NĐ-CP). Ngoài ra, nếu phải chịu thiệt hại do người mượn có hành vi tự ý chiếm giữ và sử dụng thông tin căn cước công dân để vay tiền thì người cho mượn có thể khởi kiện người đó yêu cầu bồi thường thiệt hại theo khoản 1 điều 584 Bộ luật Dân sự 2015.
Nguồn tin: Theo Tạp chí Luật sư Việt Nam
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn