(Luật PhápLý) - Việc nghiên cứu về tội phạm có ý nghĩa rất quan trọng trong hoạt động truy cứu trách nhiệm hình sự và quyết định hình phạt cho người phạm tội. Trong đó, trường hợp phạm tội chưa đạt là một trong những trường hợp đặc biệt của Luật Hình sự Việt Nam. Bài viết này nhằm phân tích về những đặc điểm của trường hợp phạm tội chưa đạt và căn cứ quyết định hình phạt đối với trường hợp đặc biệt này, từ đó đưa ra kiến nghị, đề xuất nhằm hoàn thiện pháp luật hình sự.
Đặc điểm của trường hợp phạm tội chưa đạt
Phạm tội chưa đạt là một khái niệm trong luật hình sự, dùng để chỉ hành vi mà người phạm tội đã cố ý thực hiện tội phạm nhưng không hoàn thành vì những lý do khách quan, ngoài ý muốn của người phạm tội. Có bốn đặc điểm cơ bản của phạm tội chưa đạt như sau:
- Giai đoạn phạm tội chưa hoàn thành: Đây là một giai đoạn sơ bộ, trong đó người phạm tội đã bắt đầu thực hiện hành vi nhưng chưa hoàn tất. Hành vi này nằm trong phạm vi của các tội phạm cố ý trực tiếp.
- Hành vi phạm tội đã bắt đầu nhưng chưa hoàn tất: Người phạm tội đã thực hiện một phần hành vi phạm tội theo quy định trong cấu thành tội phạm của Bộ luật Hình sự. Điều này có nghĩa hành vi đã xâm phạm đến các quan hệ xã hội mà luật hình sự bảo vệ.
- Hành vi chưa được thực hiện đến cùng do nguyên nhân khách quan: Người phạm tội không hoàn thành hành vi vì các nguyên nhân khách quan nằm ngoài ý muốn của mình. Họ đã có ý định phạm tội, nhưng vì các yếu tố ngoài tầm kiểm soát, hành vi không hoàn tất.
- Hậu quả mong muốn không xảy ra: Mặc dù người phạm tội có ý định gây ra hậu quả nhất định, nhưng hậu quả đó không xảy ra hoặc nếu có xảy ra thì không đủ thỏa mãn yêu cầu của cấu thành tội phạm tương ứng trong Bộ luật Hình sự.
Những đặc điểm này giúp xác định rõ phạm tội chưa đạt, khác với tội phạm hoàn thành hoặc các dạng phạm tội khác.
Đối với trường hợp phạm tội chưa đạt, tội danh được xác định theo điều luật tương ứng tại phần các tội phạm của BLHS. Về mặt lý luận, phạm tội chưa đạt có thể được chia thành hai trường hợp chính:
- Phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành: Đây là trường hợp người phạm tội chưa thực hiện hết các hành vi cần thiết để hoàn thành tội phạm theo ý định của họ, và do đó, hậu quả của tội phạm chưa xảy ra. Tức là, người phạm tội mới chỉ bắt đầu thực hiện hành vi phạm tội nhưng chưa hoàn thành hết các hành vi khách quan, và do nguyên nhân khách quan, họ bị ngăn cản hoặc không thể tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội.
Ví dụ: Một người đang chuẩn bị tấn công nạn nhân, nhưng bị bắt giữ trước khi có thể thực hiện hành động gây tổn hại.
- Phạm tội chưa đạt đã hoàn thành: Trong trường hợp này, người phạm tội đã thực hiện đầy đủ các hành vi theo dự định để thực hiện tội phạm, nhưng hậu quả mong muốn vẫn không xảy ra do những nguyên nhân khách quan ngoài tầm kiểm soát của họ.
Ví dụ: Người phạm tội đã bắn vào nạn nhân với mục đích giết người, nhưng nạn nhân không chết do được cấp cứu kịp thời.
Cả hai trường hợp này đều có chung đặc điểm là người phạm tội đã cố ý thực hiện hành vi phạm tội nhưng không thể hoàn thành tội phạm do các yếu tố ngoài ý muốn. Tuy nhiên, sự khác biệt giữa chúng nằm ở mức độ thực hiện hành vi phạm tội.
Người có hành vi phạm tội trong trường hợp phạm tội chưa đạt vẫn phải chịu TNHS về cùng một tội danh, cùng một điều luật, cùng một tình tiết định khung và cùng phạm vi chế tài như trường hợp phạm tội hoàn thành, nhưng có những sự khác biệt trong việc áp dụng hình phạt. Mặc dù hành vi phạm tội chưa đạt về cơ bản tương ứng với tội phạm hoàn thành về mặt ý định và cấu thành, người phạm tội chưa đạt không thực hiện được hành vi đến cùng do những nguyên nhân ngoài ý muốn. Do đó, hình phạt được áp dụng có thể nhẹ hơn so với trường hợp tội phạm hoàn thành
Ảnh minh hoạ.
Quyết định hình phạt đối với trường hợp phạm tội chưa đạt
Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội chưa đạt là một trường hợp quyết định hình phạt đặc biệt. Khi quyết định hình phạt đối với trường hợp này ngoài việc phải tuân thủ các quy định chung về quyết định hình phạt thì Tòa án còn phải tuân thủ các quy định riêng đối với trường hợp đặc biệt này.
Trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, việc quyết định hình phạt dựa trên khung hình phạt đã được quy định trong luật. Tuy nhiên, do đây là giai đoạn đặc biệt, vậy nên việc quyết định hình phạt sẽ dựa trên các căn cứ đặc biệt sau:
Tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi chuẩn bị phạm tội: Mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội đã thực hiện, mức độ thực hiện hành vi phạm tội so với tội phạm đã hoàn thành Mặc dù hành vi chưa gây ra hậu quả thực tế, nhưng nó đã thể hiện ý định và bước đầu thực hiện hành vi phạm tội. Tính chất nguy hiểm của hành vi và mức độ chuẩn bị, cũng như khả năng gây thiệt hại thực tế sẽ là yếu tố quan trọng trong việc xác định hình phạt.
Việc đánh giá các căn cứ nhằm xác định mức độ nguy hiểm cho xã hội của trường hợp phạm tội chưa đạt phải hết sức thận trọng, phải đánh giá tất cả các tình tiết có trong vụ án bởi trường hợp phạm tội chưa đạt, đặc biệt là phạm tội chưa đạt đã hoàn thành, có điểm rất gần với tội phạm hoàn thành vì về cơ bản, hành vi phạm tội đã được thực hiện đầy đủ. Tuy nhiên, sự khác biệt nằm ở chỗ hậu quả của hành vi phạm tội chưa xảy ra hoặc không đáp ứng đầy đủ các dấu hiệu khách quan theo cấu thành tội phạm được quy định trong Bộ luật Hình sự. Điểm khác biệt này là cơ sở để phân biệt giữa phạm tội chưa đạt đã hoàn thành và tội phạm hoàn thành, đồng thời là căn cứ quan trọng để quyết định hình phạt trong các trường hợp phạm tội chưa đạt. Mặc dù hành vi đã được thực hiện đầy đủ, nhưng do hậu quả không xảy ra hoặc chưa thỏa mãn, hình phạt cho phạm tội chưa đạt có thể nhẹ hơn so với trường hợp tội phạm hoàn thành. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, mức độ nguy hiểm của hành vi có thể khiến người phạm tội phải chịu hình phạt nặng không kém so với tội phạm hoàn thành.
Theo quy định tại Điều 57 BLHS thì khi quyết định hình phạt đối với hành vi phạm tội chưa đạt thì hình phạt được quyết định theo các điều của BLHS về các tội phạm tương ứng tùy theo tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, mức độ thực hiện ý định phạm tội và những tình tiết khác khiến cho tội phạm không thực hiện được đến cùng. Đối với trường hợp phạm tội chưa đạt, nếu điều luật được áp dụng có quy định hình phạt cao nhất là tù chung thân hoặc tử hình thì áp dụng hình phạt tù không quá 20 năm; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt không quá 3/4 mức phạt tù mà điều luật quy định.
Như vậy, theo quy định tại Điều 57 BLHS thì trong quyết định hình phạt đối với trường hợp phạm tội chưa đạt đặc biệt là hình phạt được áp dụng cho bị cáo phải nhẹ hơn so với trường hợp tội phạm hoàn thành bởi trong trường hợp phạm tội chưa đạt có mức độ nguy hiểm cho xã hội ít hơn nhiều so với trường hợp phạm tội hoàn thành.
Một số kiến nghị, đề xuất
Đối với Điều 15 BLHS 2015 quy định về phạm tội chưa đạt cần bổ sung thêm mức chịu TNHS đối với từng mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội chưa đạt, có thể bổ sung như sau: “Người phạm tội chưa đạt phải chịu trách nhiệm hình sự tương ứng với mức độ gây nguy hiểm cho xã hội của hành vi đã thực hiện về tội phạm chưa đạt.”
Việc bổ sung thêm quy định này sẽ tạo cơ sở pháp lý, và đề cao khả năng nhận định các tình tiết có trong vụ án của Tòa án khi quyết định hình phạt đối với trường hợp đặc biệt này.
Tác giả bài viết: PHẠM CAO SƠN - Tòa án quân sự khu vực Quân chủng Hải quân
Nguồn tin: Theo Tạp chí Luật sư Việt Nam
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn