Bị can vắng mặt người thân có được nhận hộ quyết định tố tụng

Thứ hai - 11/08/2025 04:20

(LSVN) - Khi thực hiện tống đạt văn bản tố tụng thông qua phương thức giao, chuyển trực tiếp thì phải trực tiếp chuyển cho người được nhận (bao gồm: bị can, bị cáo, bị hại, người tố giác, người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan,…). Trường hợp họ vắng mặt thì văn bản này có thể được giao cho người thân thích của họ có đủ năng lực hành vi dân sự, bao gồm: vợ, chồng, bố đẻ, mẹ đẻ, bố chồng, mẹ chồng, bố vợ, mẹ vợ, bố nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi; ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột; cụ nội, cụ ngoại, bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, cháu ruột (điểm e Khoản 1 Điều 4 Bộ luật tố tụng hình sự) ký nhận và người này cam kết sẽ giao lại ngay cho người được nhận.

Hiện nay, theo quy định tại Điều 142 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung các năm 2021 và năm 2025, thì trong vụ án hình sự, các cơ quan tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm phải cấp, giao, chuyển, gửi, niêm yết, thông báo văn bản tố tụng (gồm: lệnh, quyết định, yêu cầu, kết luận điều tra, bản cáo trạng, bản án và các văn bản tố tụng khác trong hoạt động tố tụng) cho người tham gia tố tụng, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.
ky thay ky thua lenh 10091867
Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.
 

Việc cấp, giao, chuyển, gửi, niêm yết hoặc thông báo văn bản tố tụng được thực hiện thông qua các phương thức: Cấp, giao, chuyển trực tiếp; Gửi qua dịch vụ bưu chính; Niêm yết công khai; Thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng, qua nền tảng số, phần mềm ứng dụng dùng chung triển khai tại Trung tâm dữ liệu quốc gia, cổng thông tin hoặc trang thông tin điện tử của cơ quan tiến hành tố tụng (Điều 137 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung các năm 2021 và năm 2025). Cụ thể từng trường hợp như sau:

Thứ nhất: Việc cấp, giao, chuyển trực tiếp văn bản tố tụng được thực hiện (theo quy định Điều 138 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2021 và năm 2025) như sau:

Người thực hiện việc cấp, giao, chuyển văn bản tố tụng phải trực tiếp chuyển giao cho người được nhận. Người nhận phải ký nhận vào biên bản hoặc sổ giao nhận. Thời điểm để tính thời hạn tố tụng là ngày họ ký nhận vào biên bản hoặc sổ giao nhận.

Trường hợp người được nhận văn bản tố tụng vắng mặt thì văn bản tố tụng có thể được giao cho người thân thích của họ có đủ năng lực hành vi dân sự ký nhận và yêu cầu người này cam kết giao lại ngay cho người được nhận. Ngày ký nhận của người thân thích là ngày được cấp, giao văn bản tố tụng.

Trường hợp không thể giao cho người được nhận văn bản tố tụng theo quy định nêu trên thì có thể chuyển giao văn bản đó cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc, học tập để giao lại cho người được nhận. Cơ quan, tổ chức phải thông báo ngay kết quả việc cấp, giao, gửi văn bản tố tụng cho các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng đã yêu cầu. Ngày ký nhận của cơ quan, tổ chức là ngày được cấp, giao văn bản tố tụng.

Trường hợp người được nhận văn bản tố tụng vắng mặt hoặc không rõ địa chỉ thì người thực hiện việc cấp, giao phải lập biên bản về việc không thực hiện được việc cấp, giao, có xác nhận của đại diện cơ quan, tổ chức nơi người đó cư trú, làm việc, học tập.

Trường hợp người được nhận văn bản tố tụng từ chối nhận văn bản tố tụng thì người thực hiện việc cấp, giao phải lập biên bản về việc từ chối và có xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc, học tập.

Trường hợp người được cấp, giao văn bản tố tụng là cơ quan, tổ chức thì văn bản tố tụng được giao trực tiếp cho người đại diện của cơ quan, tổ chức đó và phải được người này ký nhận. Thời điểm để tính thời hạn tố tụng là ngày họ ký nhận vào biên bản hoặc sổ giao nhận.

Thứ hai: Việc gửi văn bản tố tụng qua dịch vụ bưu chính (Điều 139 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung các năm 2021 và năm 2025) được quy định như sau:

Việc gửi văn bản tố tụng qua dịch vụ bưu chính phải bằng thư bảo đảm và có xác nhận của người nhận văn bản tố tụng. Văn bản có xác nhận phải được chuyển lại cho cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Thời điểm để tính thời hạn tố tụng là ngày họ xác nhận đã nhận được văn bản tố tụng.

Thứ ba: Về thủ tục niêm yết công khai văn bản tố tụng (được quy định tại Điều 140 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung các năm 2021 và năm 2025) được thực hiện như sau:

Việc niêm yết công khai văn bản tố tụng được thực hiện khi không rõ địa chỉ hoặc không rõ người được cấp, giao đang ở đâu.

Việc niêm yết công khai văn bản tố tụng được thực hiện tại trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cuối cùng người được cấp, giao văn bản tố tụng cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi cuối cùng người đó làm việc, học tập.

Văn bản tố tụng phải được niêm yết công khai ít nhất là 15 ngày kể từ ngày niêm yết. Việc niêm yết công khai được lập biên bản ghi rõ ngày, tháng, năm niêm yết. Thời điểm để tính thời hạn tố tụng là ngày kết thúc việc niêm yết.

Thứ tư: Về thủ tục thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng, qua nền tảng số, phần mềm ứng dụng dùng chung triển khai tại Trung tâm dữ liệu quốc gia, cổng thông tin hoặc trang thông tin điện tử của cơ quan tiến hành tố tụng (Điều 141 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2021 và năm 2025) được quy định như sau:

Việc thông báo văn bản tố tụng trên phương tiện thông tin đại chúng, qua nền tảng số, phần mềm ứng dụng dùng chung triển khai tại Trung tâm dữ liệu quốc gia, cổng thông tin hoặc trang thông tin điện tử của cơ quan tiến hành tố tụng được thực hiện khi việc niêm yết công khai không có kết quả hoặc các trường hợp khác theo quy định của pháp luật.

Thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng được đăng trên báo hàng ngày của trung ương trong 03 số liên tiếp và phát sóng trên Đài Phát thanh hoặc Đài Truyền hình của trung ương ba lần trong 03 ngày liên tiếp. Thời điểm để tính thời hạn tố tụng là ngày kết thúc việc thông báo.

Như vậy, khi thực hiện tống đạt văn bản tố tụng thông qua phương thức giao, chuyển trực tiếp thì phải trực tiếp chuyển cho người được nhận (bao gồm: bị can, bị cáo, bị hại, người tố giác, người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan,…).

Trường hợp họ vắng mặt thì văn bản này có thể được giao cho người thân thích của họ có đủ năng lực hành vi dân sự, bao gồm: vợ, chồng, bố đẻ, mẹ đẻ, bố chồng, mẹ chồng, bố vợ, mẹ vợ, bố nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi; ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột; cụ nội, cụ ngoại, bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, cháu ruột (điểm e Khoản 1 Điều 4 Bộ luật Tố tụng hình sự) ký nhận và người này cam kết sẽ giao lại ngay cho người được nhận.

Theo đó, trong trường hợp khi cơ quan tiến hành tố tụng tống đạt các văn bản tố tụng tại nhà (giao trực tiếp) mà bị can đang điều trị bệnh, chưa tỉnh táo hoặc chưa thể nói chuyện được thì vợ của bị can có thể ký nhận theo quy định tại khoản 2 Điều 138 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung các năm 2021 và năm 2025.

Trong trường hợp này, vợ bị can sẽ có nghĩa vụ giao lại các văn bản tố tụng đã nhận cho bị can. Khi bị can bình phục hoặc đã đủ điều kiện sức khỏe để làm việc thì bị can sẽ phải trực tiếp tham gia các hoạt động tố tụng, làm việc với các cơ quan tiến hành tố tụng, để giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.

Tác giả bài viết: Thạc sĩ. Luật sư NGUYỄN ĐỨC HÙNG

Nguồn tin: Theo Tạp chí Luật sư Việt Nam

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

ĐỐI TÁC CỦA LUẬT PHÁP LÝ
ngan háng
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây