Trong quá trình xét xử vụ án hình sự, biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú được áp dụng nhằm đảm bảo sự có mặt của bị can, bị cáo, đồng thời phục vụ hiệu quả cho hoạt động tố tụng. Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng biện pháp này, đặc biệt là thời hạn trong giai đoạn xét xử, vẫn còn tồn tại nhiều bất cập, dẫn đến sự thiếu thống nhất trong cách hiểu và thực hiện pháp luật. Bài viết này sẽ phân tích các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 liên quan đến thời hạn áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, chỉ ra những khó khăn trong thực tiễn và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kiểm sát, qua đó đảm bảo quyền lợi hợp pháp của bị can, bị cáo.
Theo khoản 4 Điều 123 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, thời hạn áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú không được vượt quá thời hạn điều tra, truy tố hoặc xét xử theo quy định của pháp luật. Cụ thể, đối với bị can, thời hạn này được giới hạn trong phạm vi thời gian giải quyết vụ án của từng giai đoạn tố tụng. Đối với bị cáo bị kết án phạt tù, biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú có thể kéo dài từ thời điểm tuyên án cho đến khi người đó chấp hành án. Trong giai đoạn xét xử, Tòa án, với vai trò cơ quan thụ lý vụ án, chịu trách nhiệm quyết định việc áp dụng, gia hạn hoặc hủy bỏ biện pháp này.
Trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, thời hạn áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú được quy định rõ ràng dựa trên các điều luật liên quan, bao gồm Điều 277, Điều 278 và Điều 329 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Từ thời điểm Tòa án thụ lý vụ án cho hết thời gian chuẩn bị xét xử, thời hạn cơ bản được xác định tùy thuộc vào mức độ nghiêm trọng của tội phạm: 30 ngày đối với tội ít nghiêm trọng, 45 ngày đối với tội nghiêm trọng, và 2 tháng đối với tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.
Tại thời điểm mở phiên tòa sơ thẩm, nếu thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú đã hết nhưng vẫn cần tiếp tục áp dụng để đảm bảo quá trình xét xử, Hội đồng xét xử sẽ ban hành lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú mới, có hiệu lực cho đến khi kết thúc phiên tòa. Sau khi tuyên án, nếu bị cáo bị kết án phạt tù và cần tiếp tục áp dụng biện pháp này để đảm bảo thi hành án hoặc hoàn tất thủ tục chuyển hồ sơ lên Tòa án cấp phúc thẩm do có kháng cáo hoặc kháng nghị, Hội đồng xét xử sẽ ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú trong thời hạn 45 ngày kể từ ngày tuyên án.
Trong giai đoạn xét xử phúc thẩm, các quy định tại khoản 1 Điều 346 và khoản 2, 3 Điều 347 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 được áp dụng để xác định thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú. Từ khi Tòa án cấp phúc thẩm thụ lý vụ án đến trước ngày mở phiên tòa, thời hạn này là 60 ngày đối với Tòa án nhân dân cấp tỉnh và Tòa án quân sự cấp quân khu, hoặc 90 ngày đối với Tòa án nhân dân cấp cao và Tòa án quân sự trung ương. Nếu lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú do Tòa án cấp sơ thẩm ban hành vẫn còn hiệu lực, Tòa án cấp phúc thẩm có thể tiếp tục sử dụng. Trong trường hợp lệnh đã hết hạn, Chánh án, Phó Chánh án hoặc Thẩm phán chủ tọa phiên tòa sẽ ban hành lệnh mới, với thời hạn không vượt quá thời hạn xét xử phúc thẩm. Tại phiên tòa phúc thẩm, nếu cần tiếp tục áp dụng biện pháp này để hoàn thành xét xử, Hội đồng xét xử sẽ ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú cho đến khi kết thúc phiên tòa. Sau khi tuyên án, nếu bị cáo bị kết án phạt tù, trừ trường hợp được hưởng án treo, Hội đồng xét xử sẽ ban hành lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú trong 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.
Một số vướng mắc và kiến nghị hoàn thiện
Mặc dù các quy định pháp luật đã tương đối rõ ràng, thực tiễn áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú vẫn còn nhiều vướng mắc.
Thứ nhất, sự thiếu thống nhất trong cách ghi thời hạn của lệnh cấm. Quy định tại khoản 4 Điều 123 Bộ luật Tố tụng hình sự:
“Thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú không quá thời hạn điều tra, truy tố hoặc xét xử theo quy định của Bộ luật này. Thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú đối với người bị kết án phạt tù không quá thời hạn kể từ khi tuyên án cho đến thời điểm người đó đi chấp hành án phạt tù”.
Sau khi xét xử sơ thẩm, một số tòa ghi rõ thời hạn cụ thể là “… 45 ngày kể từ ngày tuyên án”, trong khi một số nơi lại ghi theo cách “…từ khi tuyên án cho đến thời điểm người đó đi chấp hành án phạt tù”. Cách ghi thời hạn cụ thể có thể dẫn đến việc phải ban hành nhiều lệnh nếu thời hạn xét xử kéo dài, gây phức tạp về thủ tục cho cả cơ quan tố tụng và bị can, bị cáo. Chẳng hạn, mỗi lần ban hành lệnh mới, bị can hoặc bị cáo phải thực hiện lại các thủ tục như cam đoan thực hiện nghĩa vụ, trong khi cơ quan tố tụng phải thông báo và bàn giao cho chính quyền địa phương để quản lý. Điều này không chỉ tốn thời gian mà còn đòi hỏi nhiều công sức để đảm bảo thực hiện đúng quy định. Ngược lại, nếu vụ án kết thúc sớm trước khi lệnh cấm hết hiệu lực và bị cáo không bị kết án phạt tù, nhưng lệnh cấm không được hủy bỏ kịp thời, quyền tự do đi lại của bị cáo có thể bị hạn chế không cần thiết, ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của họ.
Để khắc phục những bất cập này, tác giả đề xuất nên thống nhất cách ghi thời hạn của lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú theo tinh thần Điều 123 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, cụ thể là “từ ngày… đến khi hoàn thành xét xử sơ thẩm” hoặc “đến khi hoàn thành xét xử phúc thẩm”. Cách ghi này không chỉ đảm bảo thời hạn không vượt quá giới hạn của giai đoạn xét xử mà còn giúp giảm thiểu số lượng lệnh phải ban hành, đồng thời hạn chế các thủ tục lặp lại cho cả cơ quan tố tụng và bị can, bị cáo.
Thứ hai, trong trường hợp bị cáo không bị kết án phạt tù, Hội đồng xét xử cần hủy bỏ biện pháp ngăn chặn hoặc ban hành quyết định hủy bỏ lệnh, qua đó tránh ảnh hưởng đến quyền tự do đi lại của bị cáo theo đúng quy định tại điểm d khoản 1 Điều 125 Bộ luật Tố tụng hình sự. Tuy nhiên, hiện nay vẫn còn đang tranh cải về vấn đề này, có hay không việc tiếp tục áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với bị cáo không bị kết án phạt tù do bản án sơ thẩm là bản án chưa có hiệu lực pháp luật.
Đối với vấn đề này, tác giả nhận định tại Điều 363 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định:
“Trường hợp bị cáo đang bị tạm giam mà Tòa án cấp sơ thẩm quyết định đình chỉ vụ án, tuyên bị cáo không có tội, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt cho bị cáo, hình phạt không phải là hình phạt tù hoặc phạt tù nhưng cho hưởng án treo hoặc khi thời hạn phạt tù bằng hoặc ngắn hơn thời hạn đã tạm giam thì bản án hoặc quyết định của Tòa án được thi hành ngay, mặc dù vẫn có thể bị kháng cáo, kháng nghị.” Do đó, trong trường hợp này việc kháng cáo, kháng nghị không làm ảnh hưởng đến hiệu lực của bản án và Tòa án cấp sơ thẩm không cần áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với bị cáo trong trường hợp này.
Tóm lại, việc áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú trong giai đoạn xét xử vẫn còn nhiều bất cập, dẫn đến áp dụng thiếu thống nhất trong thực tiễn, tác giả đưa ra một số cách hiểu, vận dụng theo quan điểm cá nhân, trao đổi và mong nhận được ý kiến của các đồng nghiệp.
Tác giả bài viết: PHẠM MINH ĐÔ Tòa án quân sự Quân khu 7 NGUYỄN THÚY DÀNG Tòa án nhân dân huyện Mang Yang
Nguồn tin: Theo Tạp chí Luật sư Việt Nam
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn