Quyền được xét xử công bằng của bị cáo là người chưa thành niên trong luật pháp quốc tế và Việt Nam

Thứ tư - 03/12/2025 22:41

(LSVN) - Quyền được xét xử công bằng là một trong những quyền cơ bản của con người, được quốc tế thừa nhận và bảo vệ trong các văn kiện nhân quyền như Tuyên ngôn Nhân quyền (UDHR) và Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị (ICCPR). Khi đối tượng tham gia tố tụng là người chưa thành niên, quyền này không chỉ mang tính pháp lý mà còn có ý nghĩa nhân văn, giáo dục và xã hội, bởi người chưa thành niên là nhóm đối tượng đặc biệt, dễ tổn thương và chưa phát triển đầy đủ về nhận thức và tâm lý. Xuất phát từ lý do trên, bài viết nhằm phân tích cơ sở lý luận, quy định pháp luật quốc tế và Việt Nam, đồng thời từ góc độ pháp luật quốc tế, đề xuất các giải pháp kiến nghị, giải pháp để bảo đảm quyền của bị cáo là người chưa thành niên được thực hiện một cách toàn diện và hiệu quả.

Quyền được xét xử công bằng của bị cáo là người chưa thành niên trong luật pháp quốc tế và Việt Nam

Cơ sở lý luận về quyền được xét xử công bằng của bị cáo là người chưa thành niên

Quyền được xét xử công bằng là thuật ngữ dựa trên ý tưởng “đúng quy trình” (due process) của hệ thống pháp luật Anglo - Saxon. Quyền được xét xử công bằng (right to a fair trial) là quyền con người cơ bản và có tính phổ quát cao, tồn tại trong cả vụ án hình sự và vụ án dân sự hoặc vụ án hành chính (các lĩnh vực phi hình sự). Tuy nhiên, với đặc trưng mang tính chất đối trọng rõ ràng giữa một bên là quyền lực công (quyền công tố) và một bên là chủ thể bị buộc tội trong TTHS thì quyền được xét xử công bằng trong TTHS có vai trò, ý nghĩa và sự thể hiện rõ nét nhất[1].

Những quyền này được cụ thể hóa trong pháp luật quốc tế và pháp luật các quốc gia như tại các điều 10 và 11 Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền năm 1948 (UDHR)[2], Điều 6 Công ước nhân quyền châu Âu năm 1950 (ECHR)[3], các điều 14, Điều 15 Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 (ICCPR)[4] và Điều 8 Công ước nhân quyền châu Mỹ năm 1969 (ACHR)[5]. Ngoài ra, châu Phi cũng đã có riêng một văn kiện về quyền được xét xử công bằng là Tuyên ngôn Dakar về quyền được xét xử công bằng tại châu Phi (2000)[6].
 

Ảnh minh hoạ

Trong hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay, quyền được xét xử công bằng của bị cáo nói chung và bị cáo là người chưa thành niên nói riêng được thể hiện trong Hiến pháp nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam năm 2013 và được cụ thể hóa trong các văn bản luật chuyên ngành như Bộ Luật hình sự, Bộ luật TTHS và Luật Tư pháp người chưa thành niên nhưng chưa định nghĩa thế nào là quyền được xét xử công bằng của bị cáo là người chưa thành niên trong TTHS. Tuy nhiên, dựa vào một số nguyên tắc, trình tự thủ tục được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật chuyên nghành và các bài nghiên cứu của các tác giả có thể đưa ra khái niệm: “Quyền được xét xử công bằng của bị cáo là người chưa thành niên là tổng thể những quyền được quy định trong pháp luật TTHS và pháp luật về Tư pháp người chưa thành niên, bao gồm các nội dung về trình tự thủ tục, các nguyên tắc được áp dụng sau khi cá nhân bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử, quy định cho bị cáo là người từ đủ 14 đến dưới 18 tuổi được đảm bảo xét xử bởi một Tòa án độc lập, có thẩm quyền, vô tư tại phiên tòa công khai và công bằng theo luật định; quyền tự bảo vệ mình hoặc thông qua người bào chữa; quyền được suy đoán vô tội; được quyền bình đẳng trước pháp luật và trước Tòa án, và có cơ hội tự bảo vệ hoặc được người bào chữa, trợ giúp pháp lý bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình…”.

Quy định của pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam về quyền được xét xử công bằng của bị cáo là người chưa thành niên

Quy định pháp luật quốc tế

Quyền được xét xử công bằng của bị cáo là người chưa thành niên trong pháp luật quốc tế xây dựng đáp ứng quy tắc  “trẻ em, do còn non nớt về thể chất và trí tuệ, cần được chăm sóc và bảo vệ đặc biệt, kể cả sự bảo vệ thích hợp về mặt pháp lý trước cũng như sau khi ra đời”[7]. Được quy định trong Công ước về Quyền Trẻ em 1989 (CRC) hay được quy định trong Quy tắc Bắc Kinh 1985,… xét thấy về mặt ý nghĩa cốt lõi quyền này bao gồm: (1) Bảo đảm tôn trọng danh dự và nhân phẩm của người chưa thành niên, (2) Bảo đảm mọi thủ tục tố tụng đều phù hợp với lứa tuổi, mức độ phát triển và đặc điểm tâm lý, (3) Thừa nhận người chưa thành niên thuộc nhóm đối tượng yếu thế được trợ giúp pháp lý khi tham gia TTHS, (4) Hướng đến mục tiêu nhằm giảm nhu cầu can thiệp theo luật pháp và xử lý hiệu quả, công bằng và nhân đạo đối với người chưa thành niên vi phạm pháp luật.

Từ ý nghĩa trên, quyền được xét xử công bằng của người chưa thành niên trong pháp luật quốc tế không chỉ nằm ở việc bảo đảm các quyền cơ bản của con người TTHS (như suy đoán vô tội, có người bào chữa, tranh tụng…) mà còn là một cơ chế bảo vệ đa tầng, yêu cầu hệ thống tư pháp nhân văn hóa cách tiếp cận các biện pháp trong tố tụng và bảo đảm được các quyền của bị cáo là người dưới 18 tuổi. Trong đó bao gồm các quyền như: (1) Quyền được đối xử phù hợp với tuổi, mức độ phát triển và nhu cầu tâm sinh lý, (2) Quyền được suy đoán vô tội và bảo đảm các quyền tố tụng căn bản, (3) Quyền được trợ giúp pháp lý và hỗ trợ bởi cha mẹ hoặc người giám hộ, (3) Quyền được xét xử nhanh chóng, không kéo dài, (4) Quyền được bảo mật thông tin cá nhân và hạn chế công khai, (5) Quyền được tiếp cận cơ chế phục hồi, giáo dục, không chỉ là biện pháp trừng phạt.

Về các yêu cầu, biện pháp cụ thể để triển khai quyền được xét xử công bằng của bị cáo là người chưa thành niên.

Thứ nhất, quyền được đối xử phù hợp với tuổi, mức độ phát triển và nhu cầu tâm sinh lý: Theo CRC, lợi ích tốt nhất của trẻ em lên hàng đầu (Điều 3), hay trong quy tắc Bắc Kinh tại Điều 5.1, 5.2 và Điều 10.1 thì việc xử lý trẻ phải tương xứng với hoàn cảnh cá nhân và nhu cầu giáo dục, nhấn mạnh tôn trọng danh dự, nhân phẩm, trong đó, biện pháp triển khai là phòng hỏi cung thân thiện (Điều 10.1), không tạm giam chung người lớn (Điều 5.2).

Thứ hai, quyền được suy đoán vô tội và bảo đảm quyền tố tụng căn bản: Tại Điều 40(2)(b) của CRC có nêu cụ thể, theo đó, người chưa thành niên chỉ bị xử lý khi hành vi được xác định là vi phạm pháp luật, luôn được suy đoán vô tội cho đến khi chứng minh có tội, và phải được thông báo cáo buộc kịp thời,… Quy tắc Bắc Kinh có các biện pháp bảo đảm quyền như giải thích quyền im lặng (Điều 7), ghi âm - ghi hình hỏi cung để chống ép cung (Điều 14),…

Thứ ba, quyền được trợ giúp pháp lý và hỗ trợ của cha mẹ/người giám hộ: Điều 40(2)(b)(ii) và (iii) của CRC là người chưa thành niên có quyền được trợ giúp pháp lý và có quyền có mặt cha mẹ hoặc người giám hộ. Nguyên nhân là do bị cáo chưa đủ 18 tuổi sẽ chưa đủ nhận thức về pháp luật cũng như thiếu năng lực tự bảo vệ quyền, vì vậy cần có sự hỗ trợ của người giám hộ, luật sư,.... Đây là sự cân bằng giữa các biện pháp trong tố tụng và chủ thể bị cáo là người dưới 18 tuổi. Quy tắc Bắc Kinh đã đưa ra các biện pháp triển khai để bảo vệ quyền như: Bố trí luật sư/ trợ giúp pháp lý từ thời điểm đầu tiên (Điều 7.1), cha mẹ phải có mặt khi lấy lời khai (Điều 7.1), cán bộ tư pháp cần trình độ chuyên môn để hỗ trợ người chưa thành niên đúng cách (Điều 15).

Thứ tư, quyền được xét xử nhanh chóng, kịp thời. Người chưa thành niên bị kéo dài tố tụng sẽ bị ảnh hưởng tâm lý lâu dài, gián đoạn quá trình phát triển. Do đó, CRC đã quy định Điều 37(b): tước tự do chỉ trong thời gian ngắn nhất có thể, Điều 40(2)(b)(iii): vụ việc phải được xử lý không chậm trễ. Trong Quy tắc Bắc Kinh tại Điều 20.1 và Điều 13.1 có nội dung chủ yếu là xử lý nhanh gọn, tránh chậm trễ và tạm giam là biện pháp sau cùng và phải càng ngắn càng tốt. Cụ thể: Ưu tiên thời hạn điều tra - truy tố - xét xử (Điều 20.1) hoặc là dùng biện pháp thay thế như giám sát, hòa giải, cảnh cáo.

Thứ năm, quyền được bảo mật thông tin cá nhân và hạn chế công khai: do người chưa thành niên là người chưa phát triển toàn diện, dễ tổn thương tâm lý, nên trong hoạt động tố tụng phải luôn bảo đảm bảo mật thông tin, tại cơ sở cho việc tái hòa nhập và phát triển sau này. Trong CRC, Điều 16 cấm can thiệp tùy tiện vào đời tư trẻ hay điều 40(2)(vii): hạn chế công bố danh tính trẻ liên quan đến tố tụng. Theo Quy tắc Bắc Kinh, xét xử kín mặc định (Điều 8), che tên, che mặt, che trường học khi báo chí viết bài (Điều 21) và các hồ sơ tố tụng phải được ẩn danh, cơ quan tố tụng phải chịu trách nhiệm nếu để lộ thông tin.

Thứ sáu, quyền được tiếp cận cơ chế phục hồi, giáo dục, không chỉ là áp dụng biện pháp trừng phạt: Điều 37 bảo đảm rằng người dưới  18 tuổi bị tước tự do vẫn được hưởng một loạt quyền cơ bản (được hỗ trợ pháp lý, quyền giám sát độc lập và ra quyết định kịp thời), qua đó vừa bảo vệ quyền con người, vừa duy trì nguyên tắc xét xử công bằng trong tư pháp hình sự dành cho người chưa thành niên. Trong Quy tắc Bắc Kinh được thể hiện ở việc ưu tiên thay thế tố tụng bằng hòa giải, dịch vụ cộng đồng, giám sát giáo dục (Điều 11), đào tạo nghề, tư vấn tâm lý trong quá trình quản lý (Điều 17), chăm sóc hậu xử lý, theo dõi, hỗ trợ học tập, hỗ trợ tái hòa nhập (Điều 26).

Quy định pháp luật Việt Nam

Quyền được xét xử công bằng của bị cáo là người chưa thành niên tại Việt Nam hiện nay được cụ thể hóa trong các quy định pháp luật chung về bảo đảm quyền được xét xử công bằng trong TTHS, ngoài ra còn có thêm một số quy định phản ánh những yêu cầu đặc thù của tư pháp với người chưa thành niên được quy định trong một số văn bản như Luật tư pháp người chưa thành niên năm 2025. Theo đó, quyền được xét xử công bằng của bị cáo là người chưa thành niên trong pháp luật Việt Nam được thể hiện thông qua các quy định như sau:

Thứ nhất, về các quyền chung: Bị cáo là người chưa thành niên được đảm bảo quyền xét xử công bằng thông qua các nguyên tắc, trình tự thủ tục được quy định trong Bộ luật TTHS năm 2015 như: quyền được suy đoán vô tội; quyền được xét xử kịp thời, công bằng; công khai bởi một Tòa án vô tư, khách quan và Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập, chỉ tuân theo pháp luật; quyền được tranh tụng tại phiên tòa; quyền tự bào chữa hoặc nhờ người bào chữa; quyền được trình bày lời khai; ý kiến tại phiên tòa và không bị buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội;

Thứ hai, về các quyền đặc thù: Bị cáo chưa thành niên là một trong những chủ thể đặc biệt trong TTHS. Ngoài các quy định chung, quyền được xét xử công bằng của nhóm chủ thể này còn được thể hiện thông qua các quy định đặc thù về tư pháp đối với người chưa thành niên  như:

Theo quy định tại  Điều 423 BLTTHS năm 2015, về thành phần hội đồng xét xử thì  Hội đồng xét xử trong vụ án hình sự có bị cáo là người chưa thành niên (người từ đủ 14 đến dưới 18 tuổi) thì thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm phải có một Hội thẩm là giáo viên hoặc cán bộ Đoàn thanh niên hoặc người có kinh nghiệm, hiểu biết tâm lý người dưới 18 tuổi. Trường hợp đặc biệt cần bảo vệ bị cáo, bị hại là người dưới 18 tuổi thì Tòa án có thể quyết định xét xử kín. 

Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử phải triệu tập và có sự tham gia của người đại diện của bị cáo, đại diện của cơ sở giáo dục- nhà trường, tổ chức nơi bị cáo sinh hoạt, học tập, trừ trường hợp những người này vắng mặt phiên tòa mà không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại mang tính khách quan. Việc thực hiện thủ tục xét hỏi, tranh luận với bị cáo, bị hại và người làm chứng là người dưới 18 tuổi tại phiên tòa được triển khai phải phù hợp với lứa tuổi, sự phát triển tâm sinh lý, thể chất và tinh thần của họ. Phòng xử án phải được sắp xếp, bố trí thân thiện, gần gũi với người dưới 18 tuổi.

Ngoài những quy định trên, căn cứ tại các Điều 7, Điều 9, Điều 12 và Điều 14 Luật tư pháp người chưa thành niên năm 2025 còn quy định bị cáo là người chưa thành niên được hưởng các quyền được đối xử bình đẳng, công bằng, không kì thị; quyền được bảo đảm có người đại diện; quyền được bào chữa, được trợ giúp pháp lý; phiên dịch miễn phí và quyền được áp dụng hình phạt chuyển hướng theo hướng nhẹ hơn, đảm bảo có lợi hơn cho người chưa thành niên là bị cáo trong vụ án hình sự.

Yêu cầu đặt ra cho pháp luật Việt Nam từ góc độ pháp luật quốc tế về quyền được xét xử công bằng của bị cáo là người chưa thành niên và giải pháp khuyến nghị.

Yêu cầu đặt ra cho Việt Nam từ góc độ pháp luật quốc tế về quyền được xét xử công bằng của bị cáo là người dưới 18 tuổi.

Thứ nhất, Việt Nam phải bảo đảm rằng hệ thống pháp luật quốc gia phản ánh đầy đủ các nguyên tắc của luật nhân quyền quốc tế liên quan đến xét xử công bằng đối với bị cáo là người dưới 18 tuổi: nguyên tắc không phân biệt đối xử, nguyên tắc lợi ích tốt nhất dành cho trẻ em, nguyên tắc về hệ thống tư pháp riêng cho trẻ,…[8] Dựa trên các văn bản pháp lý quốc tế tạo hành lang tối thiểu bảo đảm các quyền của người dưới 18 tuổi khi xét xử: Công ước Liên hợp quốc về quyền trẻ em (CRC 1989), Quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu của Liên Hợp quốc về áp dụng pháp luật với người chưa thành niên (Các Quy tắc Bắc Kinh, 1985); Quy tắc của Liên Hợp quốc về bảo vệ người chưa thành niên bị tước quyền tự do, 1990,…

Thứ hai, Việt Nam cần tăng cường bảo đảm tính bảo mật và quyền riêng tư cho bị cáo là người dưới 18 tuổi trong quá trình xét xử. BLTTHS năm 2015 quy định tại khoản 2 Điều 423: “Tòa án có thể xét xử kín trong trường hợp đặc biệt cần bảo vệ bị cáo, bị hại là người dưới 18 tuổi”. Tuy nhiên, phần lớn các vụ án có người dưới 18 tuổi tham gia vào quá trình tố tụng được tiến hành xét xử công khai. Về việc bảo vệ bí mật đời tư của người dưới 18 tuổi, đặc biệt khi họ là nạn nhân trong các vụ án hình sự chưa được quy định đầy đủ, có thể gây tổn thương cho các em trong quá trình tố tụng[9].

Thứ ba, Việt Nam cần chú trọng nội luật hóa đầy đủ quyền được xét xử công bằng, nhanh chóng và kịp thời đối với bị cáo là người dưới 18 tuổi. Việc ghi nhận, khái quát độ tuổi được xem là trẻ em là người “dưới” 16 tuổi[10], trong khi đó tại Bộ luật Dân sự hiện hành lại xây dựng cách hiểu về người chưa thành niên là người “chưa đủ”[11] 18 tuổi. Quy định tại điều ước UN-CRC - 1989 thì “độ tuổi được xác định trẻ em là người dưới 18 tuổi” với tư cách là thành viên điều ước quốc tế thì hiện quy định pháp luật nước ta chưa đảm bảo tính đồng bộ[12].

Giải pháp khuyến nghị

Thứ nhất, Luật tư pháp người chưa thành niên cần có các quy định cụ thể về biện pháp xử lý chuyển hướng người dưới 18 tuổi theo hướng “giáo dục” giúp Việt Nam hình thành các yếu tố của nền tư pháp phục hồi khi xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội, giúp họ không tái phạm và tái hòa nhập cộng đồng. Luật tư pháp người chưa thành niên có nhiệm vụ hệ thống, thống nhất các quy định về biện pháp xử lý và hình phạt phù hợp với tính chất, mức độ hành vi và nhu cầu của người dưới 18 tuổi với quy trình thân thiện, riêng biệt, nhạy cảm giới để giám sát, giáo dục, phục hồi người dưới 18 tuổi tại cộng đồng hiệu quả[13].

Thứ hai, tăng cường hơn nữa cơ chế bảo đảm quyền bí mật đời tư của người dưới 18 tuổi để bảo đảm phù hợp hơn với quy định tại mục vii, điểm b khoản 2 Điều 40 của Công ước CRC: “Mọi điều riêng tư của trẻ em phải được hoàn toàn tôn trọng trong suốt quá trình tố tụng”. Cải cách hoạt động xét xử kín những vụ án có bị cáo là người dưới 18 tuổi theo phương châm “xét xử kín nhưng cần tạo ra không gian mở” đòi hỏi là quá trình xét xử không nên dựa vào một phía mà cần có sự cân nhắc cả về quyền và lợi ích của bị cáo và xã hội[14]. Theo đó, cần chỉnh sửa quy định tại khoản 2 Điều 423 theo hướng: Bị cáo, bị hại là người dưới 18 tuổi được xét xử kín, trừ những trường hợp ngoại lệ theo quy định của pháp luật và bản án được tuyên án công khai.

Thứ ba, trong bối cảnh Luật tư pháp người chưa thành niên được ban hành, thuật ngữ người chưa thành niên đã được quy định rõ ràng trong văn bản mới, do vậy cần nên xem xét thống nhất thuật ngữ “chưa thành niên” với “dưới 18 tuổi” hay “chưa đủ” với “dưới 18 tuổi” trong các văn bản quy phạm pháp luật. Nhóm tác giả đề xuất cần thống nhất thuật ngữ “chưa thành niên” trong việc xác định độ tuổi để đảm bảo tính chính xác và thống nhất trong các văn bản. Cũng như góp phần đồng bộ cho tất cả các khung pháp lý điều chỉnh liên quan đến đối tượng này, từ đó thể hiện tính tôn trọng các cam kết thỏa thuận tại UCRC – 1989.

Quyền được xét xử công bằng của bị cáo là người chưa thành niên phản ánh sự kết hợp giữa nguyên tắc pháp quyền, yêu cầu bảo vệ nhóm người yếu thế. Các chuẩn mực quốc tế, đặc biệt là Công ước về Quyền Trẻ em 1989 cùng các bộ quy tắc, đã thiết lập nền tảng pháp lý toàn diện nhằm bảo đảm rằng mọi thủ tục tố tụng liên quan đến người chưa thành niên phải được tiến hành theo hướng nhân văn, thân thiện và tôn trọng phẩm giá. Tại Việt Nam, thông qua Bộ luật TTHS 2015 và các văn bản hướng dẫn, đã từng bước nội luật hóa các chuẩn mực này, thể hiện nỗ lực đáng ghi nhận trong việc hoàn thiện cơ chế bảo vệ quyền tố tụng của người chưa thành niên. Bảo đảm quyền được xét xử công bằng cho người chưa thành niên không chỉ là nghĩa vụ pháp lý mà còn là cam kết của Nhà nước trong việc bảo vệ thế hệ tương lai, góp phần xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Tác giả bài viết: TRẦN THỊ THU THẢO, PHẠM NHẤT THANH, ĐINH TIÊN PHONG Đại học Luật Huế

Nguồn tin: Theo Tạp chí Luật sư Việt Nam:

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

Những tin cũ hơn

ĐỐI TÁC CỦA LUẬT PHÁP LÝ
ngan háng
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây